Nguyên tắc cơ bản của phong thủy âm trạch
1 . Rồng đến có thế , phát mạch từ xa
Việc lựa chọn âm trạch , đầu tiên phải xem thế đến của sơn
mạch trên phạm vi vĩ mô . Trong phong thuỷ gọi núi đến từ xa là thế , núi ở nơi
gần là hình , trước tiên bàn về thế sau bàn về hình , hình là do thế quyết định
.Trong ” Táng thư . Nội thiên ” có ghi : “Thượng địa chi sơn , nhấp nhô liền giải
, là đến từ trời . Như sóng nước , như ngựa phi , thế đến như bay , như long như
loan khi cao lên lúc trũng xuống , như đại bàng bổ xuống , như con thú quỳ , vạn
vật đều tuân theo ” .
Ở đây viết ” Thượng địa chi sơn ” là núi nơi mai táng , đặc
điểm của nó là : núi non nhấp nhô trùng điệp , như từ trên trời kéo xuống , như
vạn mã phóng bay , hình thành thế lai long , khí thế hùng vĩ “.Thầy phong thuỷ
lại cho rằng : thế lai long lại uốn lượn uyển chuyển , là rất tốt cho sự hình
thành sinh khí to lớn , cho nên trong ” Táng thiên . Nội thiên ” lại ghi : ” Địa
thế nguyên mạch , sơn thế nguyên cốt , uốn lượn Đông Tây hoặc là Bắc Nam , ngàn
thước là thế , trăm thước là hình . Thế đến hình dừng , là nơi toàn khí . Đất
toàn khí an táng phù hợp ” .
Chính vì thế rồng đến khí thế to lớn có ” Toàn khí ” cho
nên có đặc điểm ” Đất cao nước sâu , cây cỏ tươi tốt ” . Các nhà phong thuỷ thường
căn cứ vào thế lai long lớn nhỏ để xác định đẳng cấp phú quý , vì vậy trong ”
Táng thư . Tạp thiên ” có ghi : ” Thế như vạn mã từ trên trời dẫn xuống , táng
vương giả . Thế như sóng lớn núi non trùng điệp , táng thiên thừa . Thế như
giáng long nước vòng mây lượn , táng tước lộc tam công . Thế như nhà cửa san
sát , cây cỏ xanh tươi , táng khai phủ kiến quốc …” .
Không nói đến mối quan hệ giữa thế lai long lớn nhỏ và đẳng
cấp phú quý , trong đó có nói đến núi non trùng điệp , nước vòng mây lượn , cây
cỏ xanh tươi v.v …, rất rõ ràng đã thể hiện sự tìm kiếm của con người với môi
trường tự nhiên đẹp đẽ .
Con người hy vọng rằng sau khi chết đi sẽ trở về trong
lòng của đại tự nhiên , tìm kiếm môi trường táng địa lý tưởng là biểu hiện một
loại quan niệm về môi trường của người cổ đại .
Thế của rồng đến thường có quan hệ với phát mạch xa xôi .
Phát mạch của rồng đều ở nơi những dãy núi hội tụ , cho nên mới gọi là ” Lai
long thiên lý ” , ý nói là huyệt vị phong thuỷ thường có quan hệ với đầu nguồn
của long mạch , chỉ có sơn mạch to lớn mới có thể hình thành chi long dài rộng
. Như vậy rồng mới có khí thế , huyệt cũng mới có sinh khí .
Trong phong thuỷ lấy quan hệ ” Tổ tông ” để biểu thị giữa
can long ( rồng chính ) và chi long ( rồng nhánh ) . ” Địa lý giản minh ” có
ghi : ” Nơi phát mạch của đại long phải là nơi gặp gỡ của núi cao đỉnh lớn , gọi
là thái tổ ; từ đó mà xuống , lại có đỉnh cao , gọi là thái tông ; thế núi
quanh co uốn khúc , lại có đỉnh cao , gọi là thiếu tổ . Từ đây núi thiếu tổ đi
xuống , có cao có thấp , nhưng lấy tiết tinh thứ nhất đặt đằng sau đỉnh huyền
vũ gọi là phụ mẫu ” .
Vì vậy , khi xem thế núi phải xem kỹ hình thế của thái tổ
, thái tông , thiếu tổ , thiếu tông , phụ mẫu , sau đó mới trên cơ sở núi phụ mẫu
và dựa theo lý luận thai tức dựng dục của người để tìm nơi tồn tại của sinh khí
, tức là tìm huyệt .
2. Lớp lớp che chắn , từ xa đến gần
Như trên đã nói hình thế to lớn của rồng có quan hệ với
phát mạch từ xa , nhưng phát mạch từ xa không phải từ đầu đến cuối là một đường
thẳng , mà phải có lớp lớp che chắn , có tầng tầng lớp lớp hộ vệ chủ mạch.
Đúng như trong ” Táng thư ” đã ghi : ” Thế như vạn mã từ
trên trời rơi xuống , hình dáng như có từng lớp lang ” , hình pháp gia cho rằng
núi mà không có che chắn thì chủ long sẽ cô đơn , che chắn càng nhiều càng cát
tường , vì vậy ” Địa học giản minh . Long khai chương ” đã nói một cách tổng
quát : ” Long như mở đường mà đi , là có lực nhất , kim thuỷ mão là trên , thuỷ
tinh là thứ , phải có hình dáng như tấm che chắn , được như vậy mới tốt ” .
Nguyên tắc cơ bản của phong thủy âm trạch
3 . Tứ cục phân minh , bát long hữu dị
Nhà phong thuỷ cho rằng , hình thế của lai long nhìn từ
phía bên ngoài có thể chia làm năm loại : tức ” ngũ thế - chính thế , trắc thế
, nghịch thế , thuận thế , hồi thế ” , cụ thể biêủ hiện là : ” Long Bắc phát
triều Nam đến là chính thế . Long Tây phát Bắc làm huyệt , Nam làm triều , là
trắc thế . Long nghịch thuỷ thượng triều , thuận thuỷ hạ thử là nghịch thế .
Thân long quay về núi tổ làm triều , là hồi thế ” . Hiển
nhiên , đây là cách chia của phái hình pháp , lấy hình thế tự nhiên của thân
núi để đánh giá lợi hại của môi trường âm trạch , trộn lẫn giữa quan niệm duy vật
và duy tâm . Phái lý khí khi bàn về hình thế , chủ yếu dựa vào Ngũ tinh Bát
quái và phương vị .
Nhà phong thuỷ căn cứ ngũ tinh ở trên trời đối ứng với
ngũ hành của núi sông , cho rằng hình núi trên đất , dốc thuộc Mộc , nhọn thuộc
Hoả , vuông thuộc Thổ , tròn thuộc Kim , dài thuộc Thuỷ . Lại dùng lý luận tương
sinh tương hợp của ngũ tinh để suy đoán tài quan ấn lộc , dùng 24 sơn hướng để
chỉ rõ hướng táng khác nhau .
Hướng Đông thuộc Mộc long , hướng Nam thuộc Hoả long , hướng
Tây thuộc Kim long , hướng Bắc thuộc Thuỷ long . Gọi là tứ cục . Lại theo phép
tăng giảm của Âm Dương , bốn loại long cục đều có phân Âm Duơng , bắt đầu là Âm
long , thịnh là Dương long …
Nguyên tắc cơ bản của phong thủy âm trạch
4 . Huyệt trường phân minh , huyệt hình đa dạng
Môi trường âm trạch về mặt vĩ mô phải là nơi khí thế to lớn
, về mặt vi mô phải có huyệt trường rõ ràng . Phạm vi của huyệt trong phong thuỷ
rất nhỏ thường gọi là ” Huyệt tám thước ” , là một miếng đất tấc vuông ” Thừa
sinh khí , trú tử cốc ” , vả lại vị trí rất khó tìm chuẩn , vì vậy trong ca dao
cổ có câu : ” Nhìn thế tìm long dễ , muốn biết huyệt điểm khó ” .
Các sách như ” Táng thư ” và ” Địa học giản minh ” đều
cho rằng : nơi kết huyệt có liên quan với khí . Trong ” Địa học giản minh ” đã
dùng lý luận thai tức dựng dục để bàn về tình hình kết huyệt của long mạch ,
trong sách ghi : ” Một tiết tinh phía sau đỉnh huyền vũ gọi là phụ mẫu , dưới
phụ mẫu nơi mạch rớt xuống là thai , giống như nhận huyết mạch của cha mẹ làm
thai vậy .Luồng khí phía dưới đó là tức vậy , lại bắt đầu từ đỉnh huyền vũ tinh
diện là dựng , giống như hình thể có đầu mặt của thai nam nữ vậy , nơi dung kết
huyệt là dục , giống như đứa con sinh thành từ thai mà dục vậy ” .
Có thể thấy rằng nơi kết huyệt tương đương với nơi người
mẹ sinh con , cũng là khu vực Âm Dương giao cấu mà rất nhiều sách nói tới .
Nghĩa là đã xem huyệt phong thuỷ là nữ âm , là nơi ” Lấy được khí ra , thu được
khí đến ” , là nơi nhận được sự thai nghén , là nơi ” ém khí ” , ” dưỡng tức ”
. Đồng thời cũng là nơi ” sinh dục ” , ” xuất thai ” .
Chính vì phong thuỷ cổ đại dùng nguyên lý thai tức dựng dục
sinh sản của loài người để giải thích về ý nghĩa của huyệt phong thuỷ , đã làm
cho huyệt phong thuỷ lấy tượng trưng là nữ âm , huyệt phong thuỷ được xem như
là đất toàn khí , vì vậy con người khi lựa chọn đất ở , đất để chôn cất đều chọn
đất có những điều kiện như vậy làm đất tốt nhất , điều này đã hình thành một
khuynh hướng tình cảm lâu dài , đem lại một nội dung văn hoá đặc biệt .
Huyệt phong thuỷ đặc biệt nhấn mạnh : ” Có được sự tốt đẹp
của thai tức dựng dục của tổ tông cha mẹ , lại có toàn khí dung kết … ” . Huyệt
hình của huyệt phong thuỷ thường có sự khác nhau do địa hình cục bộ , vì vậy
chia ra làm oa huyệt , kiềm huyệt , nhũ huyệt , đột huyệt .
Oa huyệt , theo như trong ” Táng thư ” là hình giống như
tổ chim yến , chôn ở nơi lõm xuống , thường gặp ở nơi núi cao .
Kiềm huyệt , hình dáng giống như hai chân bắt chéo lên
nhau như gọng kìm , còn gọi là khai cước huyệt , ở núi cao bình địa .
Nhũ huyệt , huyệt tinh mở ra , ở giữa có nhũ , còn gọi là
huyền vũ huyệt , hoặc cũng gọi là nhũ đầu huyệt , ở bình địa núi cao .
Đột huyệt , tinh huyệt bằng , ở giữa nổi lên , còn gọi là
bào huyệt . Theo ” Táng thư ” có hình nồi úp , đỉnh có nhiều kiểu , thường gặp ở
bình địa .
Nguyên tắc cơ bản của phong thủy âm trạch
5. Núi bao nước vòng , bốn mặt vây bọc
Môi trường âm trạch tốt hay xấu , ngoài long thế long
cách , che chắn , huyệt trường như trên đã nói , còn phải xem núi sông bao bọc
xung quanh có hữu tình không ,tức là có cấu thành một tiểu môi trường hoà hợp
nhất trí không .
Thông thường cho rằng : ” Nơi có chính huyệt , núi phải
trẻ , hướng trước mặt phải mở rộng , hình thế bốn bên phải chụm , gió phải kín
, nước phải tụ … Sơn minh thuỷ tú phải mưa thuận gió hoà , đất trời sáng sủa ,
như một thế giới khác , thanh tịnh trong ồn ào , phồn hoa trong thanh tịnh ,
trông thấy là muốn nhìn , đến gần thấy lòng vui tươi , khí phải tích , tinh phải
tụ ” .
Đây là một đoạn văn nói về phương diện Phong thuỷ , mà
cũng như là một đoạn văn miêu tả về mặt phong cảnh . Trong đó những yêu cầu phải
tìm kiếm như ” Sơn minh thuỷ tú ” , ” Mưa thuận gió hoà ” , ” Thanh tịnh trong ồn
ào ” , ” Đến gần thấy lòng vui tươi ” , đây cũng là ý tưởng tìm kiếm về cảnh đẹp
thiên nhiên .
” Núi bao nước vòng ” trong phong thuỷ , chủ yếu là thể
hiện bằng quan hệ giữa sơn và thuỷ . Về quan hệ giữa sơn và thuỷ , các nhà triết
học tiền bối đã bàn đến từ lâu . Trong ” Chu lễ . Khảo công ký ” đã chỉ ra : “Địa
thế của thiên hạ , giữa hai núi nhất định phải có sông . Bên sông lớn nhất định
phải có đường đi “ , cũng có nghĩa núi và sông đồng hành với nhau .
Trong ” Quản thị địa lý chỉ mộng ” cũng có ghi : ” Nước
đi theo núi , núi ngăn nước . Núi sông phân chia các khu vực , ngăn không cho vượt
quá , tích tụ khí . Nước không có núi thì khí tan mà không thể tập trung , núi
không nước thì khí hàn . Núi như nhà , nước như tường , ở nhà cao không có tường
, không thể phòng vệ được . Núi là thực khí . Đất càng cao khí càng dày . Nước
càng sâu khí càng lớn “.
Có thể thấy rằng sơn và thuỷ dựa vào nhau để tồn tại , sơn
là nội khí , thuỷ là ngoại khí , nội ngoại kết hợp mới có thể tạo thành một chỉnh
thể hữu cơ mới có thể làm cho môi trường có sinh khí , mới có thể đạt được ” Sơn
minh thuỷ tú ” , ” Mưa thuận gió hoà ” .
Về môi trường sơn thuỷ xung quanh huyệt trường thông thường
được hợp thành được các địa hình như Sa , Thuỷ , Triều , Án . Trong đó Sa , Triều
, Án đều là núi ở xung quanh huyệt .
” Địa học ” của Trầm Cảo đã nói về quan hệ giữa chúng như
sau : “ Thuỷ nếu vòng vèo uốn khúc thì sa cũng xoay chuyển , sa và thuỷ nguyên
là một nhà . Ôm sát hai bên huyệt như cánh ve sầu là long hổ . Thanh long là tên
gọi cánh bên trái , bất kể thanh long hay bạch hổ , chỉ cần nước giữ được khí .
Giữa long hổ là minh đường , minh đường giống như ngực con người . Phía trước
long hổ có án , án phải thấp bằng để có nhìn được xa ,nước chảy ngang bên trong
gọi là trung đường , ngoài án phải có triều sơn , giống như chủ nghiêng mình
đón khách “ . Có thể tóm tắt những ý chính của nội dung trên là :
Sa thuỷ đồng hành với nhau .
Thanh long , bạch hổ là hai sa sơn bên trái bên phải .
Ở gần phía trước huyệt là núi thấp gọi là án , ở xa phía
trước huyệt là núi lớn gọi là triều ( có nghĩa là triều bái ) .
Nơi nước uốn lượn chảy ra gọi là thuỷ khẩu , hai bên thuỷ
khẩu phải có núi cao dựng đứng khép lại gọi là thuỷ khẩu sa . ” Núi của thuỷ khẩu
phải cao và lớn , vòng mà khép lại , hình thế như vậy mới tốt ” . Nước chảy ra
phải chậm rãi uốn lượn , không được chảy nhanh , nếu không sẽ tổn sinh khí .
Vì vậy tại thuỷ khẩu càng nhiều lớp núi càng tốt , ” Hám
long kinh ” có ghi : ” Cửa khẩu có ngàn trùng khoá chặt nhất định có vương hầu ở
trong đó “ . thật ra yêu cầu ở đây vẫn là một loại môi trường tương đối độc lập
, yêu cầu môi trường phải tĩnh mịch bình yên, tương đối độc lập với ngoại cảnh
, nước chảy vòng vèo , lớp lớp khoá chặt , có cảm giác như lớp lớp che chắn .
Sự phân hợp của sơn thuỷ tạo thành môi trường lớn với núi
bao nước vòng , kết hợp với sa , triều , án tạo thành môi trường nhỏ trấn giữ bốn
mặt.- (Hết)-
Nguyên tắc cơ bản của phong thủy âm trạch
Quà
tặng cho khách hàng:
Với các sản phẩm bằng ngọc và đá quý
tự nhiên sẽ có kèm chứng thư kiểm định đá quý cho từng sản phẩm – Chúng tôi cam
kết bán hàng xịn – Bạn tự tin tặng quà cao cấp – Người nhận hài lòng sung sướng
Với các sản phẩm do chúng tôi bán ra
cho các bạn sẽ được sư phụ tại chùa Phúc Khánh Hà Nội khai quang, trì chú theo
thông tin gia chủ, chọn ngày giờ đẹp để bạn an vị tại nhà hay văn phòng cơ quan
Nguyên tắc cơ bản của phong thủy âm trạch
Nguồn:
Sưu tầm
Kính
Mời Quý Khách Tham Khảo Các Sản Phẩm Khác Tại Phong Thủy Và Đời Sống . Com theo
danh mục dưới đây:
Tỳ
Hưu
Tỳ Hưu
Đeo Cổ
Tỳ Hưu
Trang Sức
Ty
Huu
Tỳ Hưu Bằng
Đồng Bột Đá
Nhẫn
Tỳ Hưu
Nhan
Ty Huu
Thiềm
Thừ, Coc
Phong Thủy
Đá
Phong Thủy
Vật
Phẩm Phong Thủy
Phật
Di Lặc
Phat
Di Lac
Hồ
Lô – Rồng – Rùa – Kỳ Lân – Sư Tử - Quan Công – Hổ
Phat
Ba Quan Am
Gậy
Như Ý
Bắp
Cải Phong Thủy
Cá
Kim Long Phong Thủy
Ngựa
Trong Phong Thủy
Hoa
Mẫu Đơn
Phong
Thủy Luân
Chuông
Gió Phong Thủy
Long
Quy – Rùa Đầu Rồng
Tháp
Văn Xương Phong Thủy,
Mèo
Phong Thủy
Bộ
Phúc Lộc Thọ Tam Đa
Rồng
Phong Thủy
Thuyền
Buồm Phong Thủy
Tiền
Xu Cổ Phong Thủy
Voi
Phong Thủy
Kim Nguyên
Bảo
Ấn
Ngọc, Ấn Rồng, Ấn Ngọc Tỳ Hưu
Hạc
Uyên Ương Phong Thủy
Quà
Tặng Phong Thủy
Quà
tặng mừng tân gia – khai trương
Quà
Tặng Mừng Thọ
Quà
Cưới – Quà Tặng Kỷ Niệm Ngày Cưới
Quà
Tặng Cặp Hiếm Muộn Cầu Con
Quà
Mừng Nhập Học – Tốt Nghiệp
Quà
Tặng Đầy Tháng
Quà
Biếu Tặng Sếp
Đá
Quý
Hổ
Phách (Amber)
Đá
Thạch Anh Tím (Amethyst)
Thạch
Anh Hồng (Rose Quartz)
Thạch
Anh Vàng (Citrine Quartz)
Thạch
Anh Ám Khói (Smoky Quartz)
Thạch
Anh Tóc (Rutil Quartz)
Thạch
Anh Đen
Thạch
Anh Trắng (Quartz)
Đá
Mắt Hổ (Tiger Eye Quartz)
Ngọc
Phỉ Thúy (Natural Jadeite),
Đá
Ruby Đỏ (Hồng Ngọc)
Đá
Saphia (Đá Sapphire)
Đá
Thiên Thạch (Tectite)
Đá
Mặt Trăng (Moonstone)
Đá
Garnet (Ngọc Hồng Lựu)
Ngọc
Thiên Nhiên Miến Điện
Ngọc
Lục Bảo (Emerald)
Aquamarine
(Ngọc Xanh Biển)
Đá Agate
Đá
Flourite (Flourit)
Đá
Peridot
Đá
rhodochrosite
Opal,
Opan, Ngọc Mắt Mèo
Ngọc
Lam (Turquoise)
Đá
Topaz
Đá
Mã Não
Kim
Cương (Diamond)
Ngọc
Trai (Natural Pearl)
Cây
Tài Lộc Đá Quý Thạch Anh
Ngọc Bội
Dịch Vụ Thầy Phong Thủy Giỏi Nhất Việt Nam
Dịch Vụ Thầy Phong Thủy
Hướng Dẫn Khai Quang, Trì Chú Tỳ Hưu Thiểm
Thừ và Các Vật Phẩm Phong Thủy tại ngôi chùa Linh Thiêng (Chú trên Điện Tam Bảo
theo thong tin gia chủ)
Khai Quang Điểm Nhãn Tỳ Hưu Thiềm Thừ