Mỗi khi hữu sự, muốn biết sự việc tốt hay xấu thế nào,
thì người xưa thường xem quẻ Dịch để nhận được câu trả lời từ quẻ Dịch qua phương
pháp đoán theo sáu hào. Phương pháp gieo quẻ cụ thể như sau:
Ý nghĩa của 64 quẻ dịch quẻ 2 thuần khôn
Dùng ba đồng tiền cổ, thường là những đồng xu bằng đồng,
và quy ước: 1 mặt có chữ là mặt dương, 1 mặt không có chữ là mặt âm. Úp 3 đồng
tiền vào giửa 2 lòng bàn tay trong vòng vài phút và suy nghĩ tới việc mình muốn
hỏi.
Khi dùng 3 đồng tiền bỏ vào lòng bàn tay, úp 2 tay lại để
im trong vài phút làm cho từ trường của đồng tiền và từ trường của con người
liên thông với nhau.
Trong cuộc sống hằng ngày, bất cứ việc gì có liên quan
cũng làm ta xúc cảm. Xúc cảm thì sẽ phát ra thông tin, nên chỉ cần ở trong lòng
chăm chú nghĩ về việc mình dự đoán, đó gọi là tập trung ý niệm, sẽ phát tin tức
ra ngoài.
Chỉ khi ý niệm của người xin đoán tập trung thì đồng tiền
mới thông qua phản hồi thông tin để phản ánh một cách chính xác trung thực qua
mặt sấp, mặt ngửa của nó.
Khi gieo quẻ cần tìm chỗ yên tinh, thành tâm, quần áo chỉnh
tề, tập trung vào câu cần hỏi, nắm 3 đồng xu trong lòng 2 bàn tay chừng vài
phút cho tinh thần tập trung thanh thản chuyên nhất vào câu hỏi, sau đó gieo 3
đồng xu trên 1 cái đĩa, gieo tất cả 6 lần để lập quẻ.
Kết quả gieo quẻ:
- 1 đồng ngửa, 2 đồng sấp: Hào âm ghi một vạch đứt : — —
- 2 đồng ngửa, 1 đồng sấp : Hào dương một vạch liền : ———
- 3 đồng đều ngửa : Hào âm động (lão âm) ghi thêm: — — x
- 3 đồng đều sấp : Hào dương động ( lão dương ) ghi : ———
o
Hào có vòng tròn “o” là hào dương động, hào có dấu “x” gọi
là hào âm động.
Trong quẻ hào có vòng tròn “o” và hào có dấu “x” gọi là
hào động. Động thì biến, dương động biến thành âm, âm động biến thành dương.
Trong một quẻ sáu hào toàn động thì toàn biến, sáu hào đều
không động là không biến. Một vạch liền là “thiếu dương”, 2 vạch đứt là “thiếu
âm”. Vòng tròn “o” là “lão dương” chủ về việc quá khứ, dấu “x” là “lão âm” chủ
về việc tương lai. Vòng tròn “o” là hào động, dấu “x” là hào biến. Dưới đây là
1 quẻ làm ví dụ:
Thứ tự quẻ theo các lần sắp xếp từ dưới lên:
Lần 6: N N N - 3 đồng đều ngửa : Hào âm động (lão âm) ghi
thêm: — — x
Lần 5: N N S - 2 đồng ngửa, 1 đồng sấp : Hào dương một vạch
liền : ———
Lần 4: S S S - 3 đồng đều sấp : Hào dương động ( lão dương
) ghi : ——— o
Lần 3: N S S - 1 đồng ngửa, 2 đồng sấp: Hào âm ghi một vạch
đứt : — —
Lần 2: N S S - 1 đồng ngửa, 2 đồng sấp: Hào âm ghi một vạch
đứt : —
—
Lần 1: S S S - 3 đồng đều sấp : Hào dương động ( lão dương
) ghi : ——— o
Lúc xếp hào thì xếp từ dưới lên trên. Lúc xếp tên quẻ thì
lại xếp từ trên xuống dưới. Quẻ này có quẻ nội là Chấn, quẻ ngoại là Đoài, là
kim trên, mộc dưới, là quẻ “Trạch lôi tùy”.
Quẻ ngoại: Đoài vi trạch.
Lần 6: N N N - 3 đồng đều ngửa : Hào âm động (lão âm) ghi
thêm: —
— x
Lần 5: N N S - 2 đồng ngửa, 1 đồng sấp: Hào dương một vạch
liền : ———
Lần 4: S S S - 3 đồng đều sấp : Hào dương động ( lão dương
) ghi : ——— o
Quẻ nội: Chấn vi lôi.
Lần 3: N S S - 1 đồng ngửa, 2 đồng sấp: Hào âm ghi một vạch
đứt : — —
Lần 2: N S S - 1 đồng ngửa, 2 đồng sấp: Hào âm ghi một vạch
đứt : — —
Lần 1: S S S - 3 đồng đều sấp : Hào dương động ( lão dương
) ghi : ——— o
Người xưa trong thực tiễn dự đoán đã phát hiện bát quái
và ngũ hành có quan hệ mật thiết với nhau.
Căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn đã tổng kết ra các thuộc
tính của các quẻ trong 8 cung, đồng thời phát hiện ra 6 hào của mỗi quẻ lại có
thuộc tính với ngũ hành của nó và hàm chứa một thông tin nào đó, gọi là “tượng
hào”.
Để cung cấp cho độc giả tham khảo, dưới đây xin giới thiệu
ý nghĩa của từng quẻ Dịch trong 64 quẻ Dịch, và ý nghĩa của từng tượng hào
trong mỗi quẻ Dịch.
Ý nghĩa của 64 quẻ dịch quẻ 2 thuần khôn
Quẻ 02 :::::: Thuần Khôn (坤
kūn)
Quẻ Thuần Khôn đồ hình :::::: còn gọi là quẻ Khôn (坤 kūn), tức Đất là quẻ số 2 trong Kinh Dịch. Đất mẹ, nhu
thuận, sinh sản và nâng đỡ muôn vật, Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là: ☷ (::: 坤
kūn) Khôn hay (地) Đất
và Ngoại quái là: ☷
(::: 坤 kūn) Khôn hay (地) Đất.
Giải nghĩa: Thuận dã. Nhu thuận. Thuận tòng, mềm dẻo,
theo đường mà được lợi, hòa theo lẽ, chịu lấy. Nguyên hanh lợi trinh chi tượng.
Phục Hy ghi: Khôn nghĩa là thuận.
THOÁN TỪ Văn Vương viết:
DỊCH: Quẻ Khôn có sức sáng tạo lớn lao (nguyên), thông suốt
và thuận tiện (hanh), lợi ích thích đáng (lợi), ngay thẳng và có đức chính và bền
của con ngựa cái. Người quân tử có dịp thi thố tài năng nhưng tự thủ xướng thì
dễ bị lầm, để người khác thủ xướng mà mình theo sau thì được, chỉ mong có ích
cho mọi người thì lợi. Yên lòng giữ đức bền, tốt. Khôn, nguyên, hanh, lợi tẫn
mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng, tiên mê hậu đắc, chủ lợi. Tây Nam đắc bằng,
Đông Bắc táng bằng. An trinh, cát. 坤,元,亨,利牝馬之貞。 君子有攸往,先迷後得,主利。 西南得朋,東北喪朋。安貞,吉。 Khôn 坤 – đất,
mẹ, đất mẹ. Tẫn mã 牝馬– con
ngựa cái. Du 攸– thoáng ngang qua. Vãng 往– đi,
đã qua. Tiên 先– trước, làm trước. Mê 迷 – lầm lạc. Hậu 後 –
sau, nối dõi. Đắc 得– được.
Chủ 主 – chủ nhân, chúa. Tây Nam 西南 – phương vị quẻ Khôn = hãy là chính mình.
Đông Bắc 東北 – ngược hướng với phương
vị quẻ Khôn = đối nghịch với bản tính của chính mình. Làm một việc không hợp với
bản tính của mình thì khó thành công. Một cách hiểu khác: theo Hậu Thiên Bát
Quái thì Đông Bắc là phương vị của quẻ Cấn 艮. Cấn
là ngưng nghỉ là bằng lòng với cái mình có, không hợp với nhiệm vụ nặng nề và
khí chất của Khôn là đảm lược. Bằng 朋 – bạn,
cộng sự, đối tác; một loại tiền tệ thời cổ. Táng 喪– mất.
An 安– yên bình.
CHIÊM: ♦ Quẻ này có 2 hào tốt (o), hai hào xấu (x). ♦ Bạn
có người yêu hay vợ giỏi giang tốt nết. ♦ Mười một cái miệng, bạn là người đảm
đang và tốt nết nuôi được mười một cái miệng ăn. ♦ Một ông quan ngồi trên đống
tiền, tay hòm chìa khóa, tiến tài tiến lộ, thành công về công danh và kinh
doanh, tiền bạc được quản lý chặt chẽ. ♦ Một vị thần mặc giáp vàng ngồi trên
đài cao giao giao bằng sắc cho một ông quan, công lao của bạn thật to lớn, được
tôn vinh và ca ngợi. ♦ Không làm điều gì không có mục đích hoặc không có lý do.
♦ Làm giùm người khác là tốt. ♦ Quẻ tháng mười. Tốt về mùa đôngvà xuân và xấu về
mùa hạ. ♦ Đây là một trong 8 quẻ bát thuần, bệnh nhân đau nặng sẽ phục hồi nhưng
phải lâu.
HÌNH: sinh sản và nâng đỡ muôn vật. 生再萬物. Sinh tái vạn vật.
TƯỢNG: Vua xướng tôi họa, vua tôi hòa hợp. 君倡臣和. Quân xướng thần họa.
KHÍ CHẤT: Đảm lược.
DÁNG: Con trâu.
HÀO TỪ Chu Công viết:
1- Đạp lên sương thì biết băng dày sắp đến. (x)
Sơ lục: Lý sương, kiên băng chí. 初六。履霜,堅冰至。Lý 履 – dẫm, đạp, đi theo; giày đóng bằng da. Sương 霜– hơi
nước đọng lại thành giọt. Kiên 堅– vững
lòng, không lo sợ. Băng 冰– nước
đá. Chí 至– đến.
Nhà nào tích lũy điều lành thì tất có thừa phúc để đến đời
sau. Nhà nào tích lũy việc chẳng lành tất có thừa tai vạ để đến đời sau.
2- Âm Đức thẳng, vuông, lớn thì cho dù thiếu học vấn cũng
không bị bất lợi. (o)
Lục nhị: Trực phương đại, bất tập vô bất lợi. 六二。直方大,不習旡不利。
Trực 直 –
thẳng, thẳng thắn, chính trực. Phương 方–
vuông vức, đạo đức. Đại 大– lớn.
Tập 習– làm đi làm lại nhiều lần cho quen, rèn
luyện. Vô bất lợi 旡不利 –
chẳng có gì là không lợi cả.
Văn ngôn giảng thêm: Người quân tử ngay thẳng ở trong
lòng thì phải có đức kính, phải có đức nghĩa. Có hai đức kính và đức nghĩa đó sẽ
không bị cô lập.
3- Ngậm chứa đức tốt không để lộ ra nên giữ vững được,
cũng theo người trên mà làm việc nước, không mong công trạng thì sau cũng có kết
quả.
Lục tam: Hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô
thành, hữu chung. 六三。含章可貞,或從王事,旡成,有終。
Hàm 含– ngậm
trong miệng. Chương 章– văn
chương, chương trình, tấu chương. Khả trinh 可貞– có
thể giữ bền được. Hoặc tòng 或從 –
đi theo cũng được, không theo cũng chẳng sao. Vương sự 王事 – việc nước, việc quốc gia. Vô thành 旡成 – Không có thành tích, không có công trạng.
Hữu chung 有終 – đi đến cùng, có kết
quả.
Văn ngôn bàn thêm: Ngậm chứa đức tốt, theo người trên làm
việc mà không dám chiếm lấy sự thành công, đó là đạo của đất, của vợ, của bề tôi
(địa đạo, thê đạo, thần đạo). Đó là cách cư xử của người dưới đối với người
trên.
4- Kín đáo giữ gìn như cái túi thắt miệng lại thì khỏi tội
lỗi mà cũng không danh dự.
Lục tứ: Quát nang, vô cữu, vô dự. 六四。括囊,旡咎,旡譽。Quát 括 -
Bó lại, buộc lại. Nang 囊 –
Cái túi. Cữu 咎– lỗi, xấu. Dự 譽–
khen, đáng khen, vinh dự, danh dự.
Văn ngôn cho hào này có cái tượng “âm cự tuyệt dương”,
lúc đó hiền nhân nên ở ẩn, rất thận trọng thì không bị tai họa. Có địa vị đại
thần, tài thấp mà địa vị cao nên phải thận trọng thì mới khỏi tội lỗi, an thân
mặc dầu không có danh dự gì.
5- Như cái xiêm màu vàng, lớn, rất tốt. (o)
Lục ngũ: Hoàng thường, nguyên cát. 六五。黃裳,元吉。
Hoàng 黃 – màu vàng. Thường 裳 – xiêm, váy, quần.
Chu Hy giải thích rằng: Vàng là màu trung chính, xiêm là
đồ mặc ở phía dưới. Hào lục ngũ là thể âm, ở ngôi tôn, cái đức trung thuận đầy ở
trong mà hiện ra ngoài, cho nên tượng nó như thế, mà chiêm của nó là điều lành
của bậc đại thiện.
Dịch tuy coi Khôn không quý bằng Càn, nhưng có lúc coi trọng
đức khiêm nhu, mà dịch cho là đức của người văn minh. Tinh thần đó là tinh thần
hiếu hòa, trọng văn hơn võ. Chu Công cho hào 5 quẻ Càn là đại quý (phi long tại
thiên) nhưng chỉ bảo: lợi kiến đại nhân; hào 5 quẻ Khôn thì khen là nguyên cát
hào tốt nhất trong kinh dịch, là có nghĩa vậy.
Chồng nghe theo vợ, cha nghe theo con.
6- Rồng đánh nhau ở đồng nội, đổ máu đen máu vàng.(x)
Thượng lục: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng. 上六。龍戰于野,其血玄黃。
Chiến 戰 –
đánh nhau. Vu 于- ở, đến. Dã 野 – cánh đồng. Huyết 血–
máu. Huyền 玄– màu đen.
Quản lý chặt chẽ đã lên đến tận cùng rồi. Chặt chẽ nữa chỉ
có hỏng việc.
7- Phải lâu dài, chính và bền thì lợi.
Dụng lục: Lợi vĩnh trinh. 用六。利永貞。
Vĩnh 永– lâu
dài, mãi mãi, vĩnh viễn.
Thuyết của Tiên Nho: Sáu hào âm biến thành sáu hào dương,
tức thuần Khôn biến thành thuần Càn, như một người nhu nhược biến thành người cương
cường, cho nên bảo là: Nên lâu dài, chính và bền.
Thuyết của Cao Hanh: hỏi về việc cát hay hung lâu dài, mà
được “hào” này thì lợi.
Ăn ở cùng nhau như vợ chồng.
Khổng Tử:
•
Trong Soán truyện :
Chí tai Khôn Nguyên, vạn vật tư sinh, nãi thuận thừa
thiên.
Khôn hậu tải vật, đức hợp vô cương, hàm hoàng quang đại,
phẩm vật hàm hanh.
Tấn mã địa loại, hành địa vô cương, nhu thuận lỵ trinh.
Quân tử du hành, tiên mê thất đạo, hậu thuận đắc thường,
tây nam đắc bằng, nãi dự loại hành, đông bắc táng bằng, nải chung hữu khánh.
An trinh chi cát, ứng địa vô cương.
• Đại
tượng truyện:
Khôn mang trọng trách của đất, người quân tử lấy đức dày
để nâng đỡ vạn vật.
Địa thế khôn, quân tử dĩ hậu đức tải vật. 象曰:地勢坤,君子以厚德載 物.
Địa 地– đất,
địa vị, vị thế. Thế 勢 –
thế lực, ảnh hưởng, vai trò. Hậu 厚–
dày. Đức 德 – đức, thiện nghệ,
năng lực của bản thân. Tải 載 –
chở. Vật 物 – muôn loài, động vật,
thực vật.
坤 : 元, 亨, 利, 牝 馬 之 貞 . 君 子 有 攸 往 . 先 迷 後 得. 主 利 . 西 南 得 朋 . 東 北 喪 朋 . 安 貞 吉 .
Khôn: Nguyên, hanh , lợi, tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu
du vãng, tiền mê hậu đắc, chủ lợi. Tây nam đắc bằng, đông bắc táng bằng. An
trinh, cát.
Dịch: Khôn có đức đầu tiên và lớn, hanh thông, thích
đáng, đức chính và bền của con ngựa cái. Người quân tử có việc làm mà thủ xướng
thì lầm, để người khác thủ xướng mà mình theo sau thì được. chỉ cốt lợi ích cho
vạn vật. đi về phía tây nam thì được bạn, về phía đông bắc thì mất bạn. An lòng
giữ đức bên vững, tốt.
Giảng : Quẻ Càn gồm 6 hào dương, quẻ Khôn gồm 6 hào âm.
Càn “tượng” (1) trời thì không “tượng” đất. Càn cương kiện thì Khôn nhu thuận.
Càn tạo ra vạn vật ở vô hình, thuộc phần khí; nhưng phải nhờ Khôn vạn vật mới hữu
hình, mới sinh trưởng, cho nên công của Khôn cũng lớn như công của Càn; chỉ khác
Khôn phải ở sau Càn, tùy theo Càn, bổ túc cho Càn; cho nên các đức nguyên,
hanh, lợi, Khôn có đủ như Càn; chỉ riêng về đức trinh (chính và bền) thì Khôn hơi
khác: tuy chính và bền nhưng phải thuận. Văn Vương dùng con ngựa cái để “tượng”
Không: ngựa là giống mạnh mà ngựa cái có tính thuận theo ngựa đực.
Cũng vì Khôn có đức thuận, cho nên khởi xướng phải là
Càn, Khôn chỉ tiếp tục công việc của Càn. Người quân tử nếu ở vào địa vị khôn,
phải tùy thuộc người trên thì làm việc cũng đừng nên khởi xướng để khỏi lầm lẫn,
chờ người ta khởi xướng rồi mới theo thì được việc, như vậy là có đức dày như đất,
chở được muôn vật, lớn cũng không kém đức của trời (Càn): “Quân tử dĩ tự cường
bất tức” là bài học rút ra từ quẻ Càn.
Chu công còn khuyên đi về phía Tây Nam vì trên Hậu thiên
bát quái Khôn ở phía Tây nam (có học giả hiểu là phía Tây và phía Nam) thì được
bạn (hoặc được tiền bạc, vì chữ “bằng” có thể hiểu là bằng hữu, cũng có thể hiểu
là bằng bối: bối là vỏ sò ngao xưa dùng làm tiền, 1 bằng là 2 hoặc 10 bối) nếu
đi về phía Đông bắc thuộc dương thì mất bạn (hoặc tiền bạc).
Được quẻ này, nến theo những lời khuyên đó mà an lòng, giữ
đức bền vững thì tốt.
Câu “Quân tử hữu du vãng, tiên mê hậu đắc” có người hiểu
là: “Người quân tử có đi đâu thì trước lầm sau đúng”, mà không giảng tại sao lại
như vậy. Hiểu như chúng tôi ở trên thì có lý hơn, làm rõ cái đạo “thuận tòng
thì tốt” của Khôn. Chữ “du” ở trong kinh Dịch thường dùng như chữ “sở”
Tác giả Văn Ngôn không giảng gì thêm chỉ tóm tắt lại: Đạo
Khôn là thuận theo trời mà tiến hành không ngừng.
Hào từ:
1) 初 六: 履 霜, 堅 冰 至
Sơ lục: Lý sương, kiên băng chí.
Giảng: Đây là hào âm đầu tiên trong quẻ. Âm thì lạnh, nên
Chu Công ví với sương lạnh mới kết lại thì thành sương, rồi lần lần, lạnh hơn,
nước sẽ đông lại thành băng. Hao này có hàm cái ý phải thận trọng từ bước đầu.
Tiểu tượng truyện không giảng thêm, còn Văn ngôn truyện thì khuyên ta:
“Nhà
nào tích lũy điều lành thì tất có thừa phúc (để đến đời sau); nhà nào tích lũy
điều chẳng lành thì tất có thừa tai vạ (để đến đời sau). Như việc bề tôi giết
vua, con giết cha, nguyên do không ở trong một buổi sớm chiều; tất dần dà có từ
lâu rồi, mà người ta không biết lo toan từ sớm vậy” (tích thiện chí gia tất hữu
dư khách, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương: Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ
phụ, phi nhất triều nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hĩ. Do biện chi bất
tảo biện dã).”
Chúng ta để ý: hào 1 quẻ Càn, Dịch chỉ khuyên cứ ở ẩn, tu
đức luyện tài chờ thời; còn hào 1 quẻ Khôn này. Dịch răn phải đề phòng từ đầu,
nếu không sẽ gặp họa; như vậy Dịch tin ở Dương hơn đạo Âm, trọng Dương hơn Âm .
2) 六 二: 直 方 大, 不 習 无 不 利
Lục nhị: trực phương đại, bất tập vô bất lợi.
Dịch: Hào 2, âm (Đức của mình) thẳng, vuông, lớn thì chẳng
phải học tập mà cũng không có gì là không lợi.
Giảng: Hào này rất tốt: thể là âm, vị cũng là âm ( hào chẳn),
thế là đắc chính, cho nên bảo là có đức thẳng (trực) nó lại đắc trung, (ở giữa
nội quái) cho nên bảo là vuông vức (phương) (1) nó lại ở trong quẻ Khôn, có qui
mô lớn, nên chẳng cần học tập khó khăn mà hành động nào cũng hợp đạo lý.
Văn ngôn giảng thêm: người quân tử muốn như hào 2 này mà
ngay thẳng ở trong lòng thì phải có đức kinh; vuông ở ngòai (khi tiếp vật) thì
phải có đức nghĩa. Có hai đức kính, nghĩa đó thì sẽ không cô lập (?). Nguyên
văn: “bất cô”, Chu Hi giảng là to lớn, tức có ý cho rằng: Kính thì “trực”,
nghĩa thì “phương”. Có đủ kính và phương thì là “đại”. Chúng tôi hiểu theo câu:
Đức bất cô, tất hữu lân” (người có đức thì không lẻ loi, tất có bạn cũng trọng
đạo đức như mình (bạn đây là hào 5, ứng với 2) không biết có đúng không.
3) 六 三: 含 章 可 貞, 或 從 王 事, 无 成 有 終
Lục tam: hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô
thành hữu chung.
Dịch: Hào 3, âm: Ngậm chứa (đừng để lộ ra) đức tốt mà giữ
vững được, có khi theo người trên mà làm việc nước, đừng chiếm lấy sự thành
công thì sau cùng sẽ có kết quả.
Giảng: Hào 3 là âm mà ở vào địa vị dương (lẻ), như vậy là
không chính, nhưng nó vốn có đức nhu thuận của quẻ Khôn, thêm được tính cương
kiện của vị dương, thì lại là tốt (đây là lẽ biến hóa của Dịch).
Nó đứng trên cùng nội quái, tức có thể có chức phận, cho
nên bảo là có lúc theo bề trên làm việc nước. Nhưng nó nên nhũn, nhu thuận (đức
của Khôn) chỉ làm trọn nghĩa vụ mà đừng chiếm lấy sự thành công thì sau cùng sẽ
có kết quả.
Văn ngôn bàn thêm: Ngậm chứa đức tốt, theo người trên làm
việc mà không dám chiếm lấy sự thành công, đó là đạo của Đất, của vợ, của bề
tôi (địa đạo, thê đạo, thần đạo). Đó là cách cư xử của người dưới đối với người
trên.
4) 六 四: 括 囊, 无 咎, 无 譽.
Lục cửu: quát nang, vô cữu, vô dự.
Dịch: Hào 4 âm: như cái túi thắt miệng lại, (kín đáo giữ
gìn) thì khỏi tội lỗi mà cũng không danh dự.
Giảng: hào 4 là âm ở địa vị âm trong một quẻ tòan âm, mà
không đắc trung như hào 2, ví như người quá nhu thuận, vô tài, không có chút cương
cường nào. Đã vậy, mà ở sát hào 5, tức là có địa vị một đại thần, tài thấp mà địa
vị cao, nên phải thận trọng thì mới khỏi tội lỗi, an thân, mặc dầu không có
danh dự gì.
Hào 4 quẻ Càn cũng ở địa vị như hào này, nhưng là dương,
có tài năng, nên còn có thể bay nhảy, tiến được (hoặc dược), khác nhau ở chỗ
đó.
Văn ngôn cho hào này có cái tượng “âm cự tuyệt dương” (vì
không có chút dương nào cả từ bản thể tới vị), như vậy là âm dương cách tuyệt
nhau, trời đất không giao nhau (thiên địa bế), lúc đó hiền nhân nên ở ẩn (hiền
nhân ẩn), rất thận trọng thì không bị tai họa.
5) 六 五: 黄 裳, 元 吉.
Lục ngũ: hoàng thường, nguyên cát.
Dịch : hào 5, âm: như cái xiêm màu vàng, lớn, tốt (rất tốt).
Giảng Hào 5 là hào chí tôn trong quẻ , đắc trung. Tuy nó
không đắc chính vì là âm mà ở vị dương; nhưng ở trong quẻ Khôn,như vậy lại tốt
vì có chút cương, không thuần âm, thuần nhu, như hào 4, tức là có tài, nhưng vẫn
là Khiêm nhu (vì là âm). Âm còn hàm ý văn vẻ nữa, trái với dương cương kiện là
võ. Cho nên Chu Công cho là hào này rất tốt, và “tượng” bằng cái xiêm màu vàng.
Vàng là màu của đất, của trung ương (hàm ý không thái quá, không bất cập) của
vàng, đồng, nên người Trung Hoa thời xưa rất quí, chỉ vua chúa mới được dùng
màu vàng trong y phục. xiêm là một bộ phận y phục ở phía dưới, đẹp đẽ, hàm cái
nghĩa khiêm hạ, không tự tôn.
Văn ngôn bàn thêm: người quân tử có đức trung (màu vàng) ở
trong mà thông suốt đạo lý, ở ngôi cao mà vẫn khiêm, tự coi mình ở thể dưới (như
cái xiêm); như vậy là chất tốt đẹp ở bên trong mà phát ra bề ngòai, làm nên sự
nghiệp lớn, tốt đẹp như vậy là cùng cực.
Như vậy Dịch tuy coi âm (Khôn) không quí bằng dương
(Càn), nhưng có lúc coi trọng đức khiêm nhu, mà Dịch cho là đức của người văn
minh. Tinh thần đó là tinh thần hiếu hòa, trọng văn hơn võ. Hào 5 quẻ Càn, Chu
Công cho là đại quí (long phi tại thiên) nhưng chỉ bảo: “Lợi kiến đại nhân”;
còn hào 5 quẻ không thì khen là”nguyên cát” hào tốt nhất trong Kinh Dịch, là có
nghĩa vậy.
6) 六 上: 龍 戰 于 野, 其 血 玄 黄.
Lục thượng: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng.
Dịch: Hào trên cùng âm : Như rồng đánh nhau ở đồng nội, đổ
máu đen máu vàng.
Giảng: hào này âm lên tới điểm cực thịnh. Âm dương tuy bổ
túc nhau, nhưng bản thể vẫn là ngược nhau, đối địch nhau. Khi âm cực thịnh, dương
cũng vậy ( hào 6 quẻ Càn) thì hai bên tất tranh nhau, và cả hai đều bị hại. Đạo
đến đó là cùng rồi. cũng vẫn cái nghĩa thịnh cực thì suy như hào 6 quẻ Càn.
Văn ngôn: không giảng gì khác, chỉ cho biết rằng “huyền
hoàng”: là sắc của trời đất, âm dương .
Cao Hanh ngờ rằng hai chữ đó [玄 黄] thời
xưa dùng như hai chữ [ ] (vì đọc như nhau) và có nghĩa là chảy ròng ròng. Không
rõ thuyết nào đúng, nhưng đại ý vẫn là tai hại cả cho hai bên.
7) 用 六: 利 永 貞.
Dụng lục: Lợi vĩnh trinh.
Dịch: (nghĩa từng chữ) dùng hào âm: phải (nên) lâu dài,
chính và bền.
Giảng: Hai chữ “dụng lục” ở đây cũng như hai chữ “dụng cửu”
ở quẻ Càn rất tối nghĩa, và câu 7 này mỗi nhà giảng một khác. Dưới đây tôi chỉ
đưa ra ba thuyết:
•
Thuyết của tiên nho: sáu hào âm biến ra sáu hào dương, tức Thuần khôn biến
thành Thuần Càn, như một người nhu nhược biến ra một người cương cường, cho nên
bảo là: phải (nên) lâu dài, chính và bền.
•
Thuyết của Cao Hanh: hỏi về việc cát hay hung lâu dài, mà được “hào” này thì lợi.
•
Thuyết của Tào Thăng: Khôn thuận theo Càn cho nên gọi là lợi; Không động thì mở
ra, tĩnh thì đóng lại. Cho nên bảo chính và bền, ý muốn nói: đạo Khôn đơn giản
mà tác tác thành vạn vật.
Chú ý: Chỉ hai quẻ Càn và Khôn là có Văn ngôn truyện, Dụng
Cửu và dụng Lục; từ quẻ sau trở đi không còn những tiết đó nữa.
Quà
tặng cho khách hàng:
Với các sản phẩm bằng ngọc và đá quý
tự nhiên sẽ có kèm chứng thư kiểm định đá quý cho từng sản phẩm – Chúng tôi cam
kết bán hàng xịn – Bạn tự tin tặng quà cao cấp – Người nhận hài lòng sung sướng
Với các sản phẩm do chúng tôi bán ra
cho các bạn sẽ được sư phụ tại chùa Phúc Khánh Hà Nội khai quang, trì chú theo
thông tin gia chủ, chọn ngày giờ đẹp để bạn an vị tại nhà hay văn phòng cơ quan
Ý nghĩa của 64 quẻ dịch quẻ 2 thuần khôn
Nguồn:
Sưu tầm
Kính
Mời Quý Khách Tham Khảo Các Sản Phẩm Khác Tại Phong Thủy Và Đời Sống . Com theo
danh mục dưới đây:
Tỳ
Hưu
Tỳ Hưu
Đeo Cổ
Tỳ Hưu
Trang Sức
Ty
Huu
Tỳ Hưu Bằng
Đồng Bột Đá
Nhẫn
Tỳ Hưu
Nhan
Ty Huu
Thiềm
Thừ, Coc
Phong Thủy
Đá
Phong Thủy
Vật
Phẩm Phong Thủy
Phật
Di Lặc
Phat
Di Lac
Hồ
Lô – Rồng – Rùa – Kỳ Lân – Sư Tử - Quan Công – Hổ
Phat
Ba Quan Am
Gậy
Như Ý
Bắp
Cải Phong Thủy
Cá
Kim Long Phong Thủy
Ngựa
Trong Phong Thủy
Hoa
Mẫu Đơn
Phong
Thủy Luân
Chuông
Gió Phong Thủy
Long
Quy – Rùa Đầu Rồng
Tháp
Văn Xương Phong Thủy,
Mèo
Phong Thủy
Bộ
Phúc Lộc Thọ Tam Đa
Rồng
Phong Thủy
Thuyền
Buồm Phong Thủy
Tiền
Xu Cổ Phong Thủy
Voi
Phong Thủy
Kim Nguyên
Bảo
Ấn
Ngọc, Ấn Rồng, Ấn Ngọc Tỳ Hưu
Hạc
Uyên Ương Phong Thủy
Quà
Tặng Phong Thủy
Quà
tặng mừng tân gia – khai trương
Quà
Tặng Mừng Thọ
Quà
Cưới – Quà Tặng Kỷ Niệm Ngày Cưới
Quà
Tặng Cặp Hiếm Muộn Cầu Con
Quà
Mừng Nhập Học – Tốt Nghiệp
Quà
Tặng Đầy Tháng
Quà
Biếu Tặng Sếp
Đá
Quý
Hổ
Phách (Amber)
Đá
Thạch Anh Tím (Amethyst)
Thạch
Anh Hồng (Rose Quartz)
Thạch
Anh Vàng (Citrine Quartz)
Thạch
Anh Ám Khói (Smoky Quartz)
Thạch
Anh Tóc (Rutil Quartz)
Thạch
Anh Đen
Thạch
Anh Trắng (Quartz)
Đá
Mắt Hổ (Tiger Eye Quartz)
Ngọc
Phỉ Thúy (Natural Jadeite),
Đá
Ruby Đỏ (Hồng Ngọc)
Đá
Saphia (Đá Sapphire)
Đá
Thiên Thạch (Tectite)
Đá
Mặt Trăng (Moonstone)
Đá
Garnet (Ngọc Hồng Lựu)
Ngọc
Thiên Nhiên Miến Điện
Ngọc
Lục Bảo (Emerald)
Aquamarine
(Ngọc Xanh Biển)
Đá Agate
Đá
Flourite (Flourit)
Đá
Peridot
Đá
rhodochrosite
Opal,
Opan, Ngọc Mắt Mèo
Ngọc
Lam (Turquoise)
Đá
Topaz
Đá
Mã Não
Kim
Cương (Diamond)
Ngọc
Trai (Natural Pearl)
Cây
Tài Lộc Đá Quý Thạch Anh
Ngọc Bội
Dịch Vụ Thầy Phong Thủy Giỏi Nhất Việt Nam
Dịch Vụ Thầy Phong Thủy
Hướng Dẫn Khai Quang, Trì Chú Tỳ Hưu Thiểm
Thừ và Các Vật Phẩm Phong Thủy tại ngôi chùa Linh Thiêng (Chú trên Điện Tam Bảo
theo thong tin gia chủ)
Khai Quang Điểm Nhãn Tỳ Hưu Thiềm Thừ